ĐỀ THI MÔN LUẬT HÔN NHÂN VÀ GIA ĐÌNH
Lớp: Quốc tế 31 B. Thời gian : 75 phút
Được sử dụng tài liệu khi làm bài.
I . LÝ THUYẾT
Trả lời đúng, sai kèm giải thích những nhận định sau ( 6 điểm )
1.Người chưa thành niên vẫn có thể kết hôn. Người đã xác định lại giới tính và đã được cơ quan nhà nước có thẩm quyền giải quyết việc cải chính hộ tịch theo qui định của pháp luật thì có quyền kết hôn.
2.Trong mọi trường hợp, nam nữ tiến hành đăng ký kết hôn phải nộp Giấy xác nhận tình trạng hôn nhân. Người đã qua nhiều nơi cư trú khác nhau thì chỉ cần xác nhận tình trạng hôn nhân tại nơi đang cư trú còn tình trạng hôn nhân trước đó họ được tự cam đoan và chịu trách nhiệm.
3. Tài sản chung của vợ chồng mà pháp luật qui định phải đăng ký quyền sở hữu nhưng giấy chứng nhận quyền sở hữu chỉ ghi tên vợ hoặc chồng thì người có tên trong giấy chứng nhận đương nhiên là chủ sở hữu của tài sản đó. Khi vợ hoặc chồng thực hiện các giao dịch phục vụ cho nhu cầu thiết yếu của gia đình mà không có sự đồng ý của bên kia thì người thực hiện giao dịch phải thanh toán bằng tài sản riêng của mình.
4. Xác nhận cha, mẹ, con theo thủ tục hành chính chỉ được tiến hành khi việc nhận cha, mẹ, con là hoàn toàn tự nguyện, không tranh chấp và bên nhận, bên được nhận đều còn sống vào thời điểm đăng ký. Cha, mẹ luôn là người đại diện theo pháp luật cho con chưa thành niên hoặc con đã thành niên mất NLHVDS .
5. Ly hôn là chấm dứt hôn nhân do Tòa án công nhận khi cả hai vợ chồng cùng yêu cầu. Người đang chấp hành án phạt tù không có quyền yêu cầu giải quyết ly hôn .
6. Tòa án giải quyết công nhận thuận tình ly hôn không phải qua thủ tục hoà giải. Khi ly hôn, vấn đề cấp dưỡng giữa vợ, chồng luôn được đặt ra khi một bên túng thiếu, có yêu cầu với mức cấp dưỡng do hai bên thỏa thuận.
II. BÀI TẬP ( 4 điểm )
Ông A, bà H kết hôn năm 2002 và có một con chung là M ( sinh tháng 08. 2005 ). “Tâm đầu ý hợp” được vài năm thì vợ chồng phát sinh mâu thuẫn do ông A sinh tật cờ bạc, rượu chè. Tháng 12. 2005, ông A bỏ nhà đi không một lời giải thích, mặc bà H một mình bươn chãi nuôi con. Tháng 12. 2006, ông A lại quay về với ý muốn đoàn tụ để nuôi dạy con chung nhưng bà H nhất quyết xin ly hôn.
Trong quá trình giải quyết vụ án, tài sản chung hai bên khai thống nhất gồm 1 xe Wave, 1 xưởng dệt, căn nhà chung vợ chồng đang cư ngụ … với tổng trị giá hơn 900 triệu đồng. Ngoài ra, ông A còn khai vợ chồng họ nợ bà D, người ngụ ở địa phương khác 256 triệu đồng ( giấy nhận tiền do ông ký tên được lập tháng 03/2006 ). Theo ông A thì số tiền này ông vay để làm ăn hầu kiếm tiền phụ giúp bà H nuôi con nhưng không may việc làm ăn bị thất bại. Bà H không thừa nhận khoản nợ này vì ông A vay bà không hề biết.
Trên cơ sở tranh chấp cùng với việc nhận định khoản nợ 256 triệu do ông A vay năm 2006 là nợ chung vì được lập trong thời kỳ hôn nhân, bản án sơ thẩm số 06/HNST ngày 16.05.2007 của TAND quận Q đã quyết định: i) Về hôn nhân: Bà H được ly hôn với ông A; ii) Về con chung: Giao cháu M, sinh năm 2004 cho bà H trực tiếp nuôi dưỡng, giáo dục. Ông A có nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con 400.000/tháng; iii) Về tài sản: Chia đôi giá trị khối tài sản chung hiện có đồng thời buộc ông A và bà H phải liên đới trả cho bà D 256 triệu đồng ( mỗi người trả một nữa số nợ - tính cả gốc lẫn lãi ).
Theo anh ( chị ), phán quyết sơ thẩm của Tòa án quận Q hợp lý không ? Tại sao?
--------------------------------------------------
Đáp án bị ẩn bởi người viết bài
--------------------------------------------------
Lớp: Quốc tế 31 B. Thời gian : 75 phút
Được sử dụng tài liệu khi làm bài.
I . LÝ THUYẾT
Trả lời đúng, sai kèm giải thích những nhận định sau ( 6 điểm )
1.Người chưa thành niên vẫn có thể kết hôn. Người đã xác định lại giới tính và đã được cơ quan nhà nước có thẩm quyền giải quyết việc cải chính hộ tịch theo qui định của pháp luật thì có quyền kết hôn.
2.Trong mọi trường hợp, nam nữ tiến hành đăng ký kết hôn phải nộp Giấy xác nhận tình trạng hôn nhân. Người đã qua nhiều nơi cư trú khác nhau thì chỉ cần xác nhận tình trạng hôn nhân tại nơi đang cư trú còn tình trạng hôn nhân trước đó họ được tự cam đoan và chịu trách nhiệm.
3. Tài sản chung của vợ chồng mà pháp luật qui định phải đăng ký quyền sở hữu nhưng giấy chứng nhận quyền sở hữu chỉ ghi tên vợ hoặc chồng thì người có tên trong giấy chứng nhận đương nhiên là chủ sở hữu của tài sản đó. Khi vợ hoặc chồng thực hiện các giao dịch phục vụ cho nhu cầu thiết yếu của gia đình mà không có sự đồng ý của bên kia thì người thực hiện giao dịch phải thanh toán bằng tài sản riêng của mình.
4. Xác nhận cha, mẹ, con theo thủ tục hành chính chỉ được tiến hành khi việc nhận cha, mẹ, con là hoàn toàn tự nguyện, không tranh chấp và bên nhận, bên được nhận đều còn sống vào thời điểm đăng ký. Cha, mẹ luôn là người đại diện theo pháp luật cho con chưa thành niên hoặc con đã thành niên mất NLHVDS .
5. Ly hôn là chấm dứt hôn nhân do Tòa án công nhận khi cả hai vợ chồng cùng yêu cầu. Người đang chấp hành án phạt tù không có quyền yêu cầu giải quyết ly hôn .
6. Tòa án giải quyết công nhận thuận tình ly hôn không phải qua thủ tục hoà giải. Khi ly hôn, vấn đề cấp dưỡng giữa vợ, chồng luôn được đặt ra khi một bên túng thiếu, có yêu cầu với mức cấp dưỡng do hai bên thỏa thuận.
II. BÀI TẬP ( 4 điểm )
Ông A, bà H kết hôn năm 2002 và có một con chung là M ( sinh tháng 08. 2005 ). “Tâm đầu ý hợp” được vài năm thì vợ chồng phát sinh mâu thuẫn do ông A sinh tật cờ bạc, rượu chè. Tháng 12. 2005, ông A bỏ nhà đi không một lời giải thích, mặc bà H một mình bươn chãi nuôi con. Tháng 12. 2006, ông A lại quay về với ý muốn đoàn tụ để nuôi dạy con chung nhưng bà H nhất quyết xin ly hôn.
Trong quá trình giải quyết vụ án, tài sản chung hai bên khai thống nhất gồm 1 xe Wave, 1 xưởng dệt, căn nhà chung vợ chồng đang cư ngụ … với tổng trị giá hơn 900 triệu đồng. Ngoài ra, ông A còn khai vợ chồng họ nợ bà D, người ngụ ở địa phương khác 256 triệu đồng ( giấy nhận tiền do ông ký tên được lập tháng 03/2006 ). Theo ông A thì số tiền này ông vay để làm ăn hầu kiếm tiền phụ giúp bà H nuôi con nhưng không may việc làm ăn bị thất bại. Bà H không thừa nhận khoản nợ này vì ông A vay bà không hề biết.
Trên cơ sở tranh chấp cùng với việc nhận định khoản nợ 256 triệu do ông A vay năm 2006 là nợ chung vì được lập trong thời kỳ hôn nhân, bản án sơ thẩm số 06/HNST ngày 16.05.2007 của TAND quận Q đã quyết định: i) Về hôn nhân: Bà H được ly hôn với ông A; ii) Về con chung: Giao cháu M, sinh năm 2004 cho bà H trực tiếp nuôi dưỡng, giáo dục. Ông A có nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con 400.000/tháng; iii) Về tài sản: Chia đôi giá trị khối tài sản chung hiện có đồng thời buộc ông A và bà H phải liên đới trả cho bà D 256 triệu đồng ( mỗi người trả một nữa số nợ - tính cả gốc lẫn lãi ).
Theo anh ( chị ), phán quyết sơ thẩm của Tòa án quận Q hợp lý không ? Tại sao?
--------------------------------------------------
Đáp án bị ẩn bởi người viết bài
--------------------------------------------------