Bài tập tình huống về áp dụng các nguyên tắc trong TTDS và đại diện đương sự
1. Sau khi Tòa án quận X xét xử sơ thẩm, nguyên đơn kháng cáo bản án sơ thẩm. Khi nhận đơn kháng cáo và hồ sơ vụ án do Tòa án cấp sơ thẩm chuyển lên, Tòa án cấp phúc thẩm thụ lý đơn kháng cáo và đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm. Tại phiên tòa phúc thẩm, Tòa án cấp phúc thẩm phát hiện trong hồ sơ có một cam kết giữa nguyên đơn và bị đơn rằng mọi tranh chấp sẽ được giải quyết bởi Tòa án quận X và quyết định của Tòa án quận X là quyết định cuối cùng và các bên có trách nhiệm thi hành, do đó Hội đồng xét xử phúc thẩm sau khi nghị án đã ra quyết định y án sơ thẩm với lý do tôn trọng quyền tự định đoạt của đương sự. Tòa án phúc thẩm đã tuân thủ đúng nguyên tắc quyền quyết định và tự định đoạt của đương sự. Với cách xử lý như vậy của Tòa án cấp phúc thẩm liệu có vi phạm nguyên tắc hai cấp xét xử không? Tại sao?
2. Người vợ hoặc chồng bị bệnh tâm thần thì bố, mẹ có quyền đại diện cho họ khởi kiện ly hôn và tham gia tố tụng:
Quan điểm thứ nhất: Không cho phép bố mẹ có quyền đại diện cho con để khởi kiện ly hôn. Vì: Quyền ly hôn là quyền về nhân thân của con người. Việc ly hôn hay kết hôn là do chính người vợ, người chồng giải quyết. Khoản 3 Điều 73 BLTTDS có quy định: “ … Đối với việc ly hôn đương sự không được ủy quyền cho người khác thay mình tham gia tố tụng”.
Quan điểm thứ hai: Áp dụng Điều 64 BLDS 2005 để cử bố, mẹ của người vợ hoặc chồng mất năng lực hành vi dân sự là người giám hộ, và khi đó bố mẹ đại diện cho con mình thực hiện việc khởi kiện xin ly hôn...
Quan điểm thứ ba: Áp dụng Điều 75 và 76 BLTTDS để thực hiện việc chỉ định bố hoặc mẹ người đang có vợ, có chồng mất năng lực hành vi dân sự là người giám hộ. Điều 75 BLTTDS quy định “1. Những trường hợp sau đây không được làm người đại diện theo pháp luật: a) Nếu họ cũng là đương sự trong một vụ án...”. Điều 76 quy định “Trong khi tiến hành tố tụng dân sự, nếu có đương sự là người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự... thì Tòa án phải chỉ định người đại diện để tham gia tố tụng tại Tòa án”. Như vậy, đã có vụ án thì mới có “đương sự” và Điều 76 mới quy định “trong khi tiến hành tố tụng...”; tức là nếu bên vợ, hoặc chồng không bị mất năng lực hành vi dân sự đã khởi kiện xin ly hôn với bên vợ hoặc chồng mất năng lực hành vi dân sự, thì sẽ áp dụng điểm a khoản 1 Điều 75 và Điều 76 BLTTDS để chỉ định bố hoặc mẹ là người đại diện cho bên vợ hoặc chồng mất năng lực hành vi dân sự.
Nhóm 1, 2 và 3: đồng ý với quan điểm thứ nhất; Nhóm 3, 4 và 5 đồng ý với quan điểm thứ hai và nhóm 6, 7 và 8 đồng ý với quan điểm thứ 3, nhóm còn lại có quan điểm khác.
3. Chị Nguyễn Thị Ánh (thường trú tại quận 1) và anh Hồ Văn Bình (thường trú tại quận 3) kết hôn hợp pháp năm 1992, đã có một con chung là cháu Hồ Văn Thanh sinh năm 1993. Tháng 2/ 2005, sau một thời gian mâu thuẫn kéo dài, chị Ánh đã làm đơn ly hôn tại tòa án quận 5, TP.Hồ Chí Minh (là nơi hai anh chị đang sinh sống). Tuy nhiên, khi giải quyết tòa án đã tiến hành hòa giải đoàn tụ thành công giữa chị Ánh và anh Bình nên đã ra quyết định công nhận đoàn tụ thành vào tháng 6/2005. Đầu năm 2006 chị Ánh trong chuyến đi du lịch nước ngoài đã không trở về nước và cũng không có tin tức nào về chị nên từ đó đến nay anh Bình nuôi cháu Thanh. Ngày 3-12-2007 anh Bình đã làm đơn đề nghị Tòa án quận 5 cho anh ly hôn với chị Ánh.
Câu hỏi:
Anh Bình có quyền làm đơn ly hôn với chị Ánh trong trường hợp này hay không? Tại sao?
Xác định tư cách tham gia tố tụng của các chủ thể.
Tòa án quận 5 có thẩm quyền giải quyết không? Tại sao?
Yêu cầu của cô :
Tất cả cá nhân đều phải thực hiện các bài tập theo yêu cầu. Riêng đối với bài tập làm việc nhóm, trên cơ sở bài làm của từng cá nhân, các bạn họp nhóm lại và viết báo cáo riêng của nhóm theo ý kiến thống nhất. Khi nộp cho cô vừa nộp bài cá nhân (áp dụng cho cả những bài tập không yêu cầu làm việc nhóm và cả bài tập cô yêu cầu làm việc nhóm) + bài của nhóm (áp dụng đối với bài tập làm việc nhóm).
1. Sau khi Tòa án quận X xét xử sơ thẩm, nguyên đơn kháng cáo bản án sơ thẩm. Khi nhận đơn kháng cáo và hồ sơ vụ án do Tòa án cấp sơ thẩm chuyển lên, Tòa án cấp phúc thẩm thụ lý đơn kháng cáo và đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm. Tại phiên tòa phúc thẩm, Tòa án cấp phúc thẩm phát hiện trong hồ sơ có một cam kết giữa nguyên đơn và bị đơn rằng mọi tranh chấp sẽ được giải quyết bởi Tòa án quận X và quyết định của Tòa án quận X là quyết định cuối cùng và các bên có trách nhiệm thi hành, do đó Hội đồng xét xử phúc thẩm sau khi nghị án đã ra quyết định y án sơ thẩm với lý do tôn trọng quyền tự định đoạt của đương sự. Tòa án phúc thẩm đã tuân thủ đúng nguyên tắc quyền quyết định và tự định đoạt của đương sự. Với cách xử lý như vậy của Tòa án cấp phúc thẩm liệu có vi phạm nguyên tắc hai cấp xét xử không? Tại sao?
2. Người vợ hoặc chồng bị bệnh tâm thần thì bố, mẹ có quyền đại diện cho họ khởi kiện ly hôn và tham gia tố tụng:
Quan điểm thứ nhất: Không cho phép bố mẹ có quyền đại diện cho con để khởi kiện ly hôn. Vì: Quyền ly hôn là quyền về nhân thân của con người. Việc ly hôn hay kết hôn là do chính người vợ, người chồng giải quyết. Khoản 3 Điều 73 BLTTDS có quy định: “ … Đối với việc ly hôn đương sự không được ủy quyền cho người khác thay mình tham gia tố tụng”.
Quan điểm thứ hai: Áp dụng Điều 64 BLDS 2005 để cử bố, mẹ của người vợ hoặc chồng mất năng lực hành vi dân sự là người giám hộ, và khi đó bố mẹ đại diện cho con mình thực hiện việc khởi kiện xin ly hôn...
Quan điểm thứ ba: Áp dụng Điều 75 và 76 BLTTDS để thực hiện việc chỉ định bố hoặc mẹ người đang có vợ, có chồng mất năng lực hành vi dân sự là người giám hộ. Điều 75 BLTTDS quy định “1. Những trường hợp sau đây không được làm người đại diện theo pháp luật: a) Nếu họ cũng là đương sự trong một vụ án...”. Điều 76 quy định “Trong khi tiến hành tố tụng dân sự, nếu có đương sự là người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự... thì Tòa án phải chỉ định người đại diện để tham gia tố tụng tại Tòa án”. Như vậy, đã có vụ án thì mới có “đương sự” và Điều 76 mới quy định “trong khi tiến hành tố tụng...”; tức là nếu bên vợ, hoặc chồng không bị mất năng lực hành vi dân sự đã khởi kiện xin ly hôn với bên vợ hoặc chồng mất năng lực hành vi dân sự, thì sẽ áp dụng điểm a khoản 1 Điều 75 và Điều 76 BLTTDS để chỉ định bố hoặc mẹ là người đại diện cho bên vợ hoặc chồng mất năng lực hành vi dân sự.
Nhóm 1, 2 và 3: đồng ý với quan điểm thứ nhất; Nhóm 3, 4 và 5 đồng ý với quan điểm thứ hai và nhóm 6, 7 và 8 đồng ý với quan điểm thứ 3, nhóm còn lại có quan điểm khác.
3. Chị Nguyễn Thị Ánh (thường trú tại quận 1) và anh Hồ Văn Bình (thường trú tại quận 3) kết hôn hợp pháp năm 1992, đã có một con chung là cháu Hồ Văn Thanh sinh năm 1993. Tháng 2/ 2005, sau một thời gian mâu thuẫn kéo dài, chị Ánh đã làm đơn ly hôn tại tòa án quận 5, TP.Hồ Chí Minh (là nơi hai anh chị đang sinh sống). Tuy nhiên, khi giải quyết tòa án đã tiến hành hòa giải đoàn tụ thành công giữa chị Ánh và anh Bình nên đã ra quyết định công nhận đoàn tụ thành vào tháng 6/2005. Đầu năm 2006 chị Ánh trong chuyến đi du lịch nước ngoài đã không trở về nước và cũng không có tin tức nào về chị nên từ đó đến nay anh Bình nuôi cháu Thanh. Ngày 3-12-2007 anh Bình đã làm đơn đề nghị Tòa án quận 5 cho anh ly hôn với chị Ánh.
Câu hỏi:
Anh Bình có quyền làm đơn ly hôn với chị Ánh trong trường hợp này hay không? Tại sao?
Xác định tư cách tham gia tố tụng của các chủ thể.
Tòa án quận 5 có thẩm quyền giải quyết không? Tại sao?
Yêu cầu của cô :
Tất cả cá nhân đều phải thực hiện các bài tập theo yêu cầu. Riêng đối với bài tập làm việc nhóm, trên cơ sở bài làm của từng cá nhân, các bạn họp nhóm lại và viết báo cáo riêng của nhóm theo ý kiến thống nhất. Khi nộp cho cô vừa nộp bài cá nhân (áp dụng cho cả những bài tập không yêu cầu làm việc nhóm và cả bài tập cô yêu cầu làm việc nhóm) + bài của nhóm (áp dụng đối với bài tập làm việc nhóm).