Đề thi môn Luật Hàng hải Quốc tế Lớp TM31B, DS31B, QT31B
Thời gian 90'
Được sử dụng tài liệu
Câu 1: Trách nhiệm và các trường hợp miễn trách của người vận chuyển (carriers) theo quy định của Hague - Visby?
Câu 2: Giải quyết tình huống
TRANH CHẤP VỀ VIỆC KHÔNG THỰC HIỆN HỢP ĐỒNG THUÊ TÀU ĐÃ KÝ KẾT
CÁC BÊN
Nguyên đơn: Chủ tàu VN
Bị đơn: Người thuê tàu Hồng Kông
CÁC VẤN ĐỀ ĐƯỢC ĐỀ CẬP
- Im lặn có phải là đồng ý?
- Không có hàng để xếp lên tàu liệu có thực hiện được hợp đồng thuê tàu đã ký kết?
TÓM TẮT VỤ VIỆC
Một chủ tàu Vn có trụ sở tại TP HCM cho người thuê tàu HK thuê tàu để chở 5.200 MT gỗ trong từ Rangoon (Myanmar) về cảng Huangpu (Trung Quốc). Tàu đến cảng xếp hàng Rangoon ngày 12/2/1992 và trao thông báo sẵn sàng làm hàng vào lúc 17h10 cùng ngày. Theo quy định của điều khoản thời gian làm hàng thỏa thuận trong hợp đồng thuê tàu thì thời gian làm hàng sẽ bắt đầu tính từ 13h ngày hôm sau, tức là ngày 13/2/1992.
Nhưng ngày hôm sau và các ngày tiếp theo tàu không làm hàng được, mặc dù chủ tàu đã thúc giục người thuê tàu rất nhiều lần về việc này. Nguyên nhân là trong số 5.200 MT hàng chỉ có một lô nhỏ 300 MT đủ điều kiện làm thủ tục xuất khẩu. Số hàng còn lại không đáp ứng được yêu cầu của nhà chức trách địa phương nên không làm được các thủ tục cần thiết để hàng được phép xếp lên tàu.
Người thuê tàu không xếp hàng lên tàu, không liên lạc gì với chủ tàu mà giữ thái độ im lặng và không trả lời. Chủ tàu rất lúng túng không biết phải làm gì khi tàu phải chờ đợi quá lâu mà không biết đến khi nào mới xếp hàng. Sau 14 ngày trôi qua, vào ngày 27/2/1992, thời gian làm hàng thỏa thuận trong hợp đồng thuê tàu kết thúc. chủ tàu gửi thông báo cho người thuê tàu tuyên bố rằng nếu trong ngày 27/2/1992 người thuê tàu vẫn giữ thái độ im lặng và không trả lời cho chủ tàu về việc xếp hàng thì chủ tàu coi là người thuê tàu vi phạm hợp đồng thuê tàu và chủ tàu có toàn quyền điều tàu rời cảng Rangoon đi nơi khác.
Ngày 28/2/1992 chủ tàu lại gửi thông báo cho người thuê tàu tuyên bố rằng sự im lặng của người thuê tàu được coi là sự đồng ý rằng người thuê tàu không thể thực hiện được hợp đồng thuê tàu, vì vậy chủ tàu có toàn quyền điều tàu rởi cảng Rangoon. Người thuê tàu vẫn cố tình giữ thái độ im lặng.
Để hạn chế tổn thất, chủ tàu buộc phải tìm hàng khác cho tàu và ngày 12/3/1992 đã ký được hợp đồng chở phân bón từ Lhokseumawe (Indonesia) về VN.
Theo quy định của điều khoản giải quyết tranh chấp thỏa thuận trong Hợp đồng thuê tàu, chủ tàu đã kiện người thuê tàu ra trọng tài HK đòi bồi thường thiệt hại do không thực hiện hợp đồng thuê tàu đã ký kết cùng với tiền phạt do quá thời gian cho phép làm hàng, tổng cộng là 79.345 USD.
Người thuê tàu bác bỏ khiếu nại của chủ tàu với lý do rằng không phải là họ không thực hiện hợp đồng hai bên đã ký mà là do chủ tàu đã tự ý điều tàu đi nơi khác nên người thuê tàu không thể xếp hàng lên tàu. Người thuê tàu khiếu nại lại chủ tàu đòi bồi thường thiệt hại do phải thuê tàu khác để chở lô hàng trên từ cảng Rangoon đi các cảng Nam TQ vào các tháng 4 và tháng 10/1992 nhưng không xuất trình được giấy phép hải quan cho xuất khẩu hàng vào tháng 2 và tháng 3/1992.
Hãy giải quyết tình huống trên.
Thời gian 90'
Được sử dụng tài liệu
Câu 1: Trách nhiệm và các trường hợp miễn trách của người vận chuyển (carriers) theo quy định của Hague - Visby?
Câu 2: Giải quyết tình huống
TRANH CHẤP VỀ VIỆC KHÔNG THỰC HIỆN HỢP ĐỒNG THUÊ TÀU ĐÃ KÝ KẾT
CÁC BÊN
Nguyên đơn: Chủ tàu VN
Bị đơn: Người thuê tàu Hồng Kông
CÁC VẤN ĐỀ ĐƯỢC ĐỀ CẬP
- Im lặn có phải là đồng ý?
- Không có hàng để xếp lên tàu liệu có thực hiện được hợp đồng thuê tàu đã ký kết?
TÓM TẮT VỤ VIỆC
Một chủ tàu Vn có trụ sở tại TP HCM cho người thuê tàu HK thuê tàu để chở 5.200 MT gỗ trong từ Rangoon (Myanmar) về cảng Huangpu (Trung Quốc). Tàu đến cảng xếp hàng Rangoon ngày 12/2/1992 và trao thông báo sẵn sàng làm hàng vào lúc 17h10 cùng ngày. Theo quy định của điều khoản thời gian làm hàng thỏa thuận trong hợp đồng thuê tàu thì thời gian làm hàng sẽ bắt đầu tính từ 13h ngày hôm sau, tức là ngày 13/2/1992.
Nhưng ngày hôm sau và các ngày tiếp theo tàu không làm hàng được, mặc dù chủ tàu đã thúc giục người thuê tàu rất nhiều lần về việc này. Nguyên nhân là trong số 5.200 MT hàng chỉ có một lô nhỏ 300 MT đủ điều kiện làm thủ tục xuất khẩu. Số hàng còn lại không đáp ứng được yêu cầu của nhà chức trách địa phương nên không làm được các thủ tục cần thiết để hàng được phép xếp lên tàu.
Người thuê tàu không xếp hàng lên tàu, không liên lạc gì với chủ tàu mà giữ thái độ im lặng và không trả lời. Chủ tàu rất lúng túng không biết phải làm gì khi tàu phải chờ đợi quá lâu mà không biết đến khi nào mới xếp hàng. Sau 14 ngày trôi qua, vào ngày 27/2/1992, thời gian làm hàng thỏa thuận trong hợp đồng thuê tàu kết thúc. chủ tàu gửi thông báo cho người thuê tàu tuyên bố rằng nếu trong ngày 27/2/1992 người thuê tàu vẫn giữ thái độ im lặng và không trả lời cho chủ tàu về việc xếp hàng thì chủ tàu coi là người thuê tàu vi phạm hợp đồng thuê tàu và chủ tàu có toàn quyền điều tàu rời cảng Rangoon đi nơi khác.
Ngày 28/2/1992 chủ tàu lại gửi thông báo cho người thuê tàu tuyên bố rằng sự im lặng của người thuê tàu được coi là sự đồng ý rằng người thuê tàu không thể thực hiện được hợp đồng thuê tàu, vì vậy chủ tàu có toàn quyền điều tàu rởi cảng Rangoon. Người thuê tàu vẫn cố tình giữ thái độ im lặng.
Để hạn chế tổn thất, chủ tàu buộc phải tìm hàng khác cho tàu và ngày 12/3/1992 đã ký được hợp đồng chở phân bón từ Lhokseumawe (Indonesia) về VN.
Theo quy định của điều khoản giải quyết tranh chấp thỏa thuận trong Hợp đồng thuê tàu, chủ tàu đã kiện người thuê tàu ra trọng tài HK đòi bồi thường thiệt hại do không thực hiện hợp đồng thuê tàu đã ký kết cùng với tiền phạt do quá thời gian cho phép làm hàng, tổng cộng là 79.345 USD.
Người thuê tàu bác bỏ khiếu nại của chủ tàu với lý do rằng không phải là họ không thực hiện hợp đồng hai bên đã ký mà là do chủ tàu đã tự ý điều tàu đi nơi khác nên người thuê tàu không thể xếp hàng lên tàu. Người thuê tàu khiếu nại lại chủ tàu đòi bồi thường thiệt hại do phải thuê tàu khác để chở lô hàng trên từ cảng Rangoon đi các cảng Nam TQ vào các tháng 4 và tháng 10/1992 nhưng không xuất trình được giấy phép hải quan cho xuất khẩu hàng vào tháng 2 và tháng 3/1992.
Hãy giải quyết tình huống trên.