SVLAW.7FORUM.BIZ 2014
Bạn có muốn phản ứng với tin nhắn này? Vui lòng đăng ký diễn đàn trong một vài cú nhấp chuột hoặc đăng nhập để tiếp tục.
SVLAW.7FORUM.BIZ 2014

Thế giới ngày mai thuộc về những người có tầm nhìn hôm nay - ROBERT SCHULLER

Đăng Nhập

Quên mật khẩu



FAVORITES

Bảo đảm quyền con người của người bị tình nghi phạm tội trong các vụ án áp dụng thủ tục rút gọn Cash_register Đăng ký
Bảo đảm quyền con người của người bị tình nghi phạm tội trong các vụ án áp dụng thủ tục rút gọn Menu-home Home
Bảo đảm quyền con người của người bị tình nghi phạm tội trong các vụ án áp dụng thủ tục rút gọn Menu-community Forum

APPS

Bảo đảm quyền con người của người bị tình nghi phạm tội trong các vụ án áp dụng thủ tục rút gọn Menu-newcontent Xem nội dung mới
Bảo đảm quyền con người của người bị tình nghi phạm tội trong các vụ án áp dụng thủ tục rút gọn Menu-quicknavigation Hộp thư

MORE

Bảo đảm quyền con người của người bị tình nghi phạm tội trong các vụ án áp dụng thủ tục rút gọn Menu-more Lý lịch
Bảo đảm quyền con người của người bị tình nghi phạm tội trong các vụ án áp dụng thủ tục rút gọn Menu-reglas Trợ giúp
Bảo đảm quyền con người của người bị tình nghi phạm tội trong các vụ án áp dụng thủ tục rút gọn Likes_flag Ban quản trị

OTHERS

Bảo đảm quyền con người của người bị tình nghi phạm tội trong các vụ án áp dụng thủ tục rút gọn Date Lịch
Bảo đảm quyền con người của người bị tình nghi phạm tội trong các vụ án áp dụng thủ tục rút gọn Cake Thống kê

Latest topics

» TỔNG HỢP TIẾNG ANH CHUYÊN NGÀNH LUẬT
by tdung67 Wed Mar 22, 2017 2:57 pm

» ĐỀ THI TRÁCH NHIỆM DÂN SỰ NGOÀI HỢP ĐỒNG (ĐỀ 2)
by tdung67 Mon May 30, 2016 9:24 am

» [HOT] 400 CÂU TRẮC NGHIỆM KIẾN THỨC NGÂN HÀNG (CÓ ĐÁP ÁN THAM KHẢO)
by duyenvinh Wed Mar 09, 2016 10:03 am

» Phương pháp học tiếng anh mới nhất
by thanhnam9187 Thu Mar 03, 2016 8:52 am

» Quản lí nhà nước về hộ tịch
by minhthuc Mon Feb 29, 2016 3:13 pm

» Anh chị nào học luật ngân sách nhà nước rồi có thể hướng dẫn em làm bài tập bên dưới được không ạ? e cảm ơn nhiều ạ :x :x :x
by hihu2016 Sun Feb 28, 2016 8:34 pm

» Tổng hợp đề thi Luật TMQT
by HoaiNam90 Tue Feb 16, 2016 4:52 pm

» Đề thi Công pháp quốc tế
by HoaiNam90 Tue Feb 16, 2016 4:51 pm

» Đề thi Luật Thương Mại
by HoaiNam90 Tue Feb 16, 2016 4:50 pm

» Trang web tổng hợp đề thi trường Luật
by HoaiNam90 Tue Feb 16, 2016 4:48 pm


You are not connected. Please login or register

Bảo đảm quyền con người của người bị tình nghi phạm tội trong các vụ án áp dụng thủ tục rút gọn

Go down  Thông điệp [Trang 1 trong tổng số 1 trang]

librarian

librarian
Thành viên cấp 4
Thành viên cấp 4

Theo Điều 319 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2003 (BLTTHS), thủ tục rút gọn (TTRG) được áp dụng đối với vụ án bảo đảm các điều kiện: người thực hiện hành vi phạm tội bị bắt quả tang; sự việc phạm tội đơn giản, chứng cứ rõ ràng; tội phạm đã thực hiện là tội phạm ít nghiêm trọng; người phạm tội có căn cước, lai lịch rõ ràng. Việc áp dụng TTRG được kỳ vọng sẽ mang lại những lợi ích thiết thực cho cơ quan tiến hành tố tụng và những người tham gia tố tụng. Tuy nhiên, qua sáu năm áp dụng cho thấy, TTRG không phát huy được tính ưu việt như mong muốn, mà trong nhiều trường hợp lại phản tác dụng, mang lại bất lợi cho bị can, bị cáo. Vì vậy, từ thực trạng áp dụng TTRG tại một số địa phương thời gian qua, dưới góc nhìn bảo đảm quyền con người của người bị tình nghi phạm tội (người bị tạm giữ, bị can, bị cáo), chúng tôi đưa ra những kiến nghị hoàn thiện pháp luật về lĩnh vực này.


1. Thực trạng áp dụng thủ tục rút gọn


Theo số liệu thống kê chưa đầy đủ của VKSNDTC thì trong năm năm (2004 - 2008), tổng số án thụ lý điều tra là 342.305 vụ, trong đó số lượng án áp dụng TTRG chiếm khoảng 0,65%. Như vậy, án hình sự áp dụng TTRG trên phạm vi toàn quốc chiếm tỷ lệ rất nhỏ so với tổng số án thụ lý điều tra1.


Khảo sát thực tiễn ở một số địa phương như Hà Nội, TP. Hồ Chí Minh, Hà Tĩnh, Bắc Ninh cho thấy, do việc áp dụng TTRG không phải là một điều kiện bắt buộc nên các địa phương cũng ít quan tâm đến việc áp dụng thủ tục này (xem hộp).




Tại Hà Tĩnh, trong 5 năm (2004 - 2008), tổng số án thụ lý là 2.510 vụ, trong đó số lượng án áp dụng TTRG chỉ có 11 vụ, chiếm 0,44%. Ở Bắc Ninh, trong 4 năm (2005 – 2008) tổng số án thụ lý là 3.794 vụ, trong đó giải quyết theo TTRG là 09 vụ, chiếm 0,2%. Trên địa bàn TP. Hồ Chí Minh và Hà Nội, tỷ lệ án áp dụng TTRG cũng rất thấp; ví dụ: quận Hà Đông (Hà Nội) là đơn vị có số án áp dụng TTRG nhiều nhất, từ 01/7/2004 đến 31/12/2008, tổng số vụ áp dụng TTRG là 49 trên 410 vụ án ít nghiêm trọng; quận Hai Bà Trưng, Hà Nội có 11 vụ; quận 3, TP. Hồ Chí Minh có 12 vụ3.


Hải Phòng là một trong những địa phương có số lượng án áp dụng TTRG lớn, nhưng số án rút gọn cũng chỉ chiếm 1,7% số vụ án giải quyết ở cấp quận, huyện dù số vụ án ít nghiêm trọng, có thể xem xét áp dụng TTRG là khá lớn (theo số liệu thống kê của VKSND TP. Hải Phòng từ 01/7/2004 đến 31/6/2009, tổng số án hình sự khởi tố là 11.099 vụ = 16.535 bị can, trong đó tội ít nghiêm trọng là 5.504 vụ = 7.377 bị can, chiếm 49,5% tổng số vụ, 44,6% tổng số bị can thụ lý).




Các vụ án được áp dụng theo TTRG có đặc điểm:


Thứ nhất, phần lớn những vụ án được áp dụng theo thủ tục này là những vụ án áp dụng đối với các bị can, bị cáo bị truy tố về Tội trộm cắp tài sản. Mặc dù Bộ luật Hình sự (BLHS) có tới 148 điều luật quy định có tội phạm ít nghiêm trọng, nhưng trên thực tế, cơ cấu tội phạm được áp dụng TTRG không đồng đều mà tập trung chủ yếu ở một số loại tội nhất định. Ví dụ: theo số liệu thống kê của VKSND TP. Hải Phòng, tính từ 01/7/2004 đến 30/6/2009 có 167 vụ = 174 bị can áp dụng TTRG; trong đó, Tội trộm cắp tài sản chiếm 162 vụ = 97%; Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản; Tội dâm ô với trẻ em; Tội đánh bạc chỉ chiếm 3%2.


Thứ hai, những bị can, bị cáo được áp dụng TTRG phần lớn là những người có tiền án, tiền sự. Kết quả khảo sát trên địa bàn TP. Hồ Chí Minh, Hải Phòng, Hà Nội cho thấy, hầu hết các bị can được áp dụng TTRG đều có tiền án, tiền sự; có nhiều bị can có từ hai tiền án trở lên, thậm chí có đến bốn tiền án. Chỉ tính riêng trên địa bàn TP. Hải Phòng, từ 01/7/2004 đến 30/6/1999 có 174 bị can được áp dụng TTRG thì 90 bị can có tiền án, chiếm 51,7%; 206 bị can có tiền sự, chiếm 11,5%; còn lại là các bị can chưa có tiền án, tiền sự.


Thứ ba, trong TTRG, cơ quan tiến hành tố tụng thường áp dụng biện pháp ngăn chặn tạm giam đối với bị can, bị cáo. Ví dụ: trong số 174 bị can áp dụng TTRG trên địa bàn TP. Hải Phòng có tới 153 bị can bị áp dụng biện pháp ngăn chặn tạm giam, chiếm 88%. Để lý giải cho việc chọn những đối tượng đã có tiền án, tiền sự để áp dụng TTRG, các Điều tra viên, Kiểm sát viên cho rằng, những đối tượng có “nhân thân xấu” có thể áp dụng biện pháp ngăn chặn tạm giam thỏa mãn những yêu cầu của Điều 88 BLTTHS, tiện cho việc điều tra, truy tố, xét xử. Những đối tượng được coi là “nhân thân xấu”, ngoài những đối tượng đã có tiền án, tiền sự, số còn lại chủ yếu là người nghiện ma túy, đối tượng thuộc diện sưu tra, địa phương nhận xét có biểu hiện phạm tội. Tuy nhiên, cũng có những bị can không có tiền án, tiền sự, nhưng do bị can không có nơi cư trú nhất định, sống lang thang... mặc dù phạm tội ít nghiêm trọng, khai báo thành khẩn vẫn bị áp dụng biện pháp ngăn chặn tạm giam.


Thứ tư, những bị can, bị cáo “được” áp dụng TTRG phần lớn đều bị Tòa án tuyên phạt tù giam. Do hầu hết các bị can bị áp dụng biện pháp ngăn chặn tạm giam trong quá trình điều tra, một mặt do nhân thân của họ xấu, không đủ điều kiện áp dụng án treo, cải tạo không giam giữ và các loại hình phạt khác nên khi ra tòa, phần lớn các bị cáo đều bị phạt tù giam. Tại TP. Hải Phòng, trong số 174 bị cáo đã xét xử, có 153 bị cáo bị phạt tù giam, chiếm 88%; 15 bị cáo được hưởng án treo và 6 bị cáo bị phạt cải tạo không giam giữ4. Trên thực tế, có một số bị cáo đủ điều kiện áp dụng án treo theo quy định của Điều 60 BLHS nhưng do Cơ quan điều tra và VKSND đã tạm giam nên Hội đồng xét xử cũng áp dụng hình phạt tù giam đối với bị cáo mà không áp dụng án treo hoặc hình phạt khác. Ví dụ: vụ án Nguyễn Văn Vý, sinh năm 1956 ở Thái Bình có hành vi trộm cắp 01 điện thoại di động trị giá 650.000đ bị bắt quả tang, vật chứng thu hồi. Bị cáo không có tiền án tiền sự nhưng do Cơ quan điều tra áp dụng biện pháp ngăn chặn tạm giam, nên mặc dù bị cáo thành khẩn khai báo, Hội đồng xét xử vẫn tuyên phạt bị cáo mức án 06 tháng tù giam. Chúng tôi cho rằng, mức án 06 tháng tù giam áp dụng cho bị cáo Vý là quá nặng, không tương xứng với hành vi phạm tội của bị cáo, chỉ vì được áp dụng TTRG mà bị cáo phải chịu mức hình phạt tù giam.


Thứ năm, phần lớn các bị can, bị cáo được áp dụng TTRG đều không biết TTRG là gì, họ không được những người tiến hành tố tụng giải thích khi giao quyết định áp dụng TTRG.


Thứ sáu, việc áp dụng TTRG trên thực tế không bảo đảm đúng các điều kiện áp dụng thủ tục này như quy định của Điều 319 BLTTHS. Hơn nữa, theo quy định tại Điều 88 BLTTHS thì hầu hết các bị can trong các vụ án rút gọn không đủ điều kiện để tạm giam. Mức án khi xét xử cũng chỉ dừng lại ở mức án treo hoặc cải tạo không giam giữ. Tuy nhiên, trên thực tiễn, hầu hết các bị can, bị cáo trong các vụ án rút gọn đều bị áp dụng biện pháp tạm giam và phần lớn đều bị áp dụng hình phạt tù như ví dụ ở TP. Hải Phòng đã nêu. Nguyên nhân của thực trạng trên xuất phát từ:


- Do thời hạn điều tra quá ngắn, nếu để bị can tại ngoại thì sẽ gặp nhiều khó khăn khi giải quyết vì liên quan đến thủ tục như triệu tập bị can để hỏi cung, tống đạt các quyết định... Chỉ cần bị can vắng mặt một lần cũng đã ảnh hưởng rất nhiều đến tiến độ giải quyết vụ án nên tâm lý của Điều tra viên, Kiểm sát viên và Thẩm phán là muốn áp dụng biện pháp ngăn chặn tạm giam đối với bị can bị áp dụng TTRG để thuận lợi cho việc điều tra, truy tố, xét xử. Vô hình trung, chỉ vì tâm lý muốn thuận lợi cho việc điều tra, truy tố, xét xử mà người tiến hành tố tụng đã đặt người bị tình nghi vào tình huống bất lợi hơn so với người bị áp dụng thủ tục thông thường, ảnh hưởng lớn đến quyền con người trong quá trình tiến hành tố tụng.


- Do các cơ quan tiến hành tố tụng chọn các vụ án chủ yếu là các tội trộm cắp tài sản, bị bắt quả tang làm án rút gọn, mà những đối tượng trộm cắp bị bắt quả tang hiện nay chủ yếu là những đối tượng nghiện ma tuý, có tiền án tiền sự, đối tượng bỏ nhà đi lang thang, không có nơi ở cố định... Những đối tượng như vậy có thể thoả mãn điều kiện được quy định tại điểm b, Khoản 1 Điều 88 BLTTHS: “phạm tội ít nghiêm trọng... và có căn cứ cho rằng người đó có thể trốn hoặc cản trở điều tra, truy tố, xét xử hoặc tiếp tục phạm tội”.


Đây cũng là hai nguyên nhân và là “tiêu chí thực tế” khi lựa chọn áp dụng TTRG của các cơ quan tiến hành tố tụng trong thực tiễn hiện nay. Điều này cũng lý giải vì sao án rút gọn ít áp dụng đối với các bị can, bị cáo tại ngoại hoặc không áp dụng đối với bị can là người chưa thành niên.



2. Bảo đảm quyền con người trong việc áp dụng thủ tục rút gọn


2.1. Áp dụng biện pháp ngăn chặn


Theo quy định tại Khoản 3 Điều 319 của BLTTHS thì án được áp dụng theo TTRG chỉ được áp dụng với tội phạm đã được thực hiện là tội ít nghiêm trọng.


Cũng theo quy định của Điều 88 BLTTHS thì việc tạm giam đối với người phạm tội ít nghiêm trọng phải có các điều kiện kèm theo như: mức hình phạt tù mà BLHS quy định phải trên hai năm và có căn cứ cho rằng người đó có thể trốn hoặc cản trở điều tra, truy tố, xét xử hoặc có thể tiếp tục phạm tội. Chính điều này làm các cơ quan tiến hành tố tụng gặp lúng túng khi quyết định áp dụng TTRG. Bởi lẽ, việc áp dụng TTRG phải được xem xét, quyết định nhanh chóng. Muốn trôi chảy từ khi khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử thì thường phải áp dụng tạm giam. Nếu quy định việc áp dụng biện pháp ngăn chặn tạm giam với án rút gọn cũng giống như các án khác sẽ khó đảm bảo tiến độ về thời gian, bị can có thể sẽ trốn tránh không đến các cơ quan tố tụng theo giấy triệu tập và như vậy, việc giải quyết sẽ không bảo đảm yếu tố về thời hạn giải quyết. Đây là trở ngại mà nhiều nơi coi là lý do để không có án rút gọn. Một số đơn vị làm được nhiều án rút gọn đã phải “linh hoạt” khi áp dụng Khoản 1 Điều 88 BLTTHS, tìm mọi lý do để có thể tạm giam người bị tình nghi nhằm mục đích thuận lợi cho quá trình tiến hành tố tụng mà bỏ qua quyền lợi của họ. Vì vậy, cần phải sửa đổi BLTTHS theo hướng hạn chế biện pháp ngăn chặn tạm giam đối với người bị tình nghi khi họ được áp dụng TTRG. Cụ thể, chỉ nên áp dụng biện pháp ngăn chặn tạm giam đối với bị cáo được áp dụng TTRG trong trường hợp bị can phạm tội ít nghiêm trọng mà BLHS quy định hình phạt tù trên hai năm và có căn cứ cho rằng, bị can có thể tiếp tục phạm tội hoặc có khả năng bỏ trốn. Trường hợp bị can có hành vi cản trở việc điều tra, truy tố, xét xử thì vụ án không còn mang tính chất đơn giản, và như vậy sẽ không đủ điều kiện áp dụng TTRG.


2.2. Bảo đảm quyền bào chữa cho người bị tình nghi


Đảm bảo quyền bào chữa của người bị tình nghi là một trong những nguyên tắc cơ bản trong tố tụng hình sự (TTHS). So với thủ tục thông thường, việc thực hiện quyền bào chữa của người bị tình nghi trong vụ án được giải quyết theo TTRG có những hạn chế nhất định do thời gian tiến hành tố tụng ngắn hơn và một số thủ tục được giản lược. Vì vậy, để đảm bảo quyền bào chữa của người bị tình nghi khi giải quyết các vụ án theo thủ tục này, pháp luật cần quy định rõ một số vấn đề sau:


- Khi giao quyết định áp dụng TTRG cho người bị tình nghi thì người tiến hành tố tụng có trách nhiệm phải giải thích cho họ hiểu rõ về TTRG để họ chấp nhận hay phản đối việc áp dụng thủ tục này trong thời hạn luật định.


- Các quyết định tố tụng liên quan như: quyết định áp dụng TTRG, quyết định khởi tố bị can, quyết định đề nghị truy tố của Cơ quan điều tra, quyết định truy tố của VKSND, bản án, quyết định của Toà án, các quyết định áp dụng biện pháp ngăn chặn của cơ quan tiến hành tố tụng (nếu có)... phải được gửi kịp thời cho người bị tình nghi trong thời hạn.


- Đảm bảo thực hiện quyền tự bào chữa hoặc nhờ luật sư bào chữa của bị can, bị cáo; rút ngắn thời hạn cấp giấy chứng nhận quyền bào chữa trong các vụ án rút gọn chỉ còn 24 giờ, kể cả trường hợp bị tạm giữ hay khởi tố bị can mà không tạm giữ, tạm giam.


2.3. Quy định có lợi hơn so với thủ tục thông thường


Nghiên cứu pháp luật TTHS của các nước cho thấy, các nước theo mô hình tố tụng Anh - Mỹ thiên về tố tụng tranh tụng và luôn đề cao mục đích ổn định quan hệ xã hội thông qua xét xử. Trong khi đó, các nước theo mô hình tố tụng châu Âu lục địa và các nước xã hội chủ nghĩa lại thiên về tố tụng xét hỏi và đề cao yêu cầu xét xử đúng người, đúng tội, đúng pháp luật, không làm oan người vô tội, đồng thời không để lọt tội phạm. Tuy nhiên, trong giai đoạn hiện nay, các hệ thống pháp luật có xu hướng xích lại gần nhau, kế thừa và tiếp nhận những ưu điểm của nhau hình thành nên những mô hình tố tụng pha trộn. Pháp luật TTHS Việt Nam cũng không nằm ngoài xu hướng đó. Về căn bản, mô hình tố tụng của chúng ta là tố tụng xét hỏi, nhưng trong giai đoạn hiện nay, chúng ta đang từng bước đề cao tố tụng tranh tụng, coi kết quả tranh tụng tại phiên toà là căn cứ để Toà án ra quyết định, bản án. Mục đích của TTHS không chỉ là xét xử đúng người, đúng tội, đúng pháp luật mà quan trọng hơn là ổn định được các quan hệ xã hội, vừa bảo đảm các quyền và lợi ích của các bên tham gia tố tụng, vừa bảo vệ được các giá trị xã hội, lợi ích của Nhà nước, cộng đồng và mục tiêu cao hơn là giáo dục, cải tạo con người.


Do vậy, chúng tôi cho rằng, việc quyết định hình phạt trong TTRG cũng nên đi theo hướng này. TTRG ra đời nhằm mục đích giảm tải về công việc của cơ quan tố tụng, giải quyết nhanh chóng những loại án đơn giản, chứng cứ rõ ràng. Mặt khác, bị can được áp dụng TTRG cũng có những hạn chế nhất định về bảo đảm quyền bào chữa. Việc giảm nhẹ hình phạt đối với bị can, bị cáo lựa chọn hình thức TTRG là một giải pháp cần thiết nhằm giải quyết nhanh chóng một lượng án khá lớn và quan trọng hơn là ổn định các quan hệ xã hội thông qua tố tụng. Đây là sự khoan hồng của Nhà nước đối với sự “cộng tác tích cực” của bị cáo và cũng giúp Nhà nước giảm chi phí, nhân lực và thời gian đáng kể cho việc giải quyết các vụ án đơn giản.


Kinh nghiệm của các nước cho thấy, họ không chỉ giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với bị can, bị cáo lựa chọn hình thức TTRG, mà nhiều nước như Hoa Kỳ, Đức, Italia... còn có hình thức mặc cả thú tội, mặc cả giảm nhẹ hình phạt, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự. Trên phương diện bình đẳng trong TTHS thì hình thức này có vẻ không công bằng, song trên bình diện tổng thể thì nó mang lại lợi ích to lớn, đáp ứng được yêu cầu của tất cả các bên liên quan. Chẳng hạn: một người có hành vi vi phạm pháp luật môi trường đủ điều kiện cấu thành tội phạm, tuy nhiên, qua mặc cả thú tội, họ thừa nhận hành vi phạm pháp, chấp nhận bồi thường cho các bên liên quan và nộp vào ngân sách nhà nước một khoản tiền phạt nhất định, họ có thể được miễn truy tố. Cách giải quyết này sẽ mang lại lợi ích thiết thực cho các bên liên quan và cả Nhà nước, cộng đồng.


Bộ luật TTHS của nước Cộng hoà Pháp mặc dù quy định, TTRG chỉ áp dụng trong phạm vi xét xử sơ thẩm, nhưng lại quy định thẩm quyền áp dụng thủ tục này do Công tố viên thuộc Viện công tố lựa chọn và quyết định: “Công tố viên lựa chọn thủ tục giản lược này gửi hồ sơ vụ án và bất kỳ đề nghị nào cho thẩm phán chủ toạ của Toà án. Thẩm phán chủ toạ quyết định bằng một lệnh hình sự mà không cần xét xử. Điều này dẫn đến việc trả tự do hoặc phạt tiền hoặc áp dụng hình phạt bổ sung thay cho hình phạt chính. Nếu thấy rằng việc xét xử là cần thiết hoặc cần phạt tù thì thẩm phán gửi hồ sơ vụ án trả lại cho Công tố viên” (Điều 495-1)5.


Bộ luật TTHS Hàn Quốc đề cập thủ tục xét xử rút gọn có quy định “cấm được đưa ra phán quyết gây bất lợi cho bị cáo”6. Chúng tôi cho rằng, quy định này trong Bộ luật TTHS Hàn Quốc là rất phù hợp với bị cáo được áp dụng TTRG và các nước khác có thể tham khảo. Vì khi Toà án xét xử vụ án theo TTRG đã ra phán quyết, trong đó thể hiện quan điểm, đường lối xử lý vụ án của Toà án. Vụ án chỉ bị đưa ra xét xử lại theo thủ tục thông thường nếu bị cáo cho rằng quyền lợi của mình bị xâm phạm và đề nghị Toà án xét xử lại theo hướng giảm nhẹ hình phạt hoặc tuyên bị cáo vô tội. Trong trường hợp này, nếu Toà án quyết định một hình phạt nặng hơn hình phạt đã tuyên trước đó là đi ngược lại nguyên tắc có lợi cho bị cáo và mâu thuẫn với chính quyết định của Toà án, trong khi vụ án không có thêm tình tiết và chứng cứ gì mới ngoài yêu cầu xét xử theo thủ tục đầy đủ của bị cáo. Vì vậy, Bộ Luật TTHS Hàn Quốc quy định trong trường hợp này, Toà án không được áp dụng hình phạt nặng hơn mức hình phạt đã tuyên đối với bị cáo trước đó là phù hợp và đảm bảo được nguyên tắc xét xử có lợi cho bị cáo.


Bộ luật TTHS Liên bang Nga cũng quy định mức án áp dụng đối với bị cáo bị áp dụng TTRG không quá 2/3 mức án áp dụng đối với bị cáo áp dụng thủ tục thông thường7.


Tiếp thu kinh nghiệm hay của nước ngoài, BLTTHS nước ta cần có những quy định cụ thể về việc quyết định hình phạt theo hướng giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho bị cáo khi áp dụng TTRG như cách quy định của Bộ luật TTHS một số nước trên thế giới, để khuyến khích họ tự nguyện phối hợp tốt hơn đối với các cơ quan tiến hành tố tụng trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử.


2.4. Quyền được lựa chọn áp dụng hay không áp dụng thủ tục rút gọn


Bộ luật TTHS nước Cộng hòa Pháp quy định, trước khi xét xử theo TTRG phải có sự đồng ý của người bị hại, nếu người bị hại không đồng ý mà đòi triệu tập bị cáo ra Tòa án để xét xử theo thủ tục thông thường thì không được áp dụng TTRG8. Còn theo quy định của Bộ luật TTHS Nhật Bản, khi áp dụng thủ tục giản lược phải có sự đồng ý của người bị xử phạt (bị cáo), nếu bị cáo không nhất trí áp dụng hình thức xét xử giản lược thì vụ án phải được xét xử theo thủ tục thông thường9. Sự khác biệt thể hiện trong luật của Pháp đòi hỏi tham khảo ý kiến của người bị hại, còn luật của Nhật Bản đòi hỏi tham khảo ý kiến của người bị xử phạt (bị cáo) trước khi áp dụng thủ tục xét xử rút gọn.


So sánh các quy định trên trong Bộ luật TTHS của Pháp và Nhật Bản với các quy định về TTRG tại Chương XXXIV của BLTTHS nước ta, thì luật TTHS nước ta không quy định về việc tham khảo ý kiến của bị can, bị cáo và người bị hại trước khi áp dụng TTRG. Thẩm quyền quyết định áp dụng TTRG theo BLTTHS hoàn toàn do Viện KSND quyết định mà không đòi hỏi có sự đồng ý của bị can, bị cáo hoặc người bị hại. Vì vậy, cần phải bổ sung quy định này trong quá trình sửa đổi, bổ sung một số điều của BLTTHS nhằm bảo đảm được quyền của người bị tình nghi trong việc áp dụng hay không áp dụng hình thức tố tụng đặc biệt này.


2.5. Áp dụng thủ tục rút gọn đối với người chưa thành niên


Một điểm khác biệt trong quy định của luật TTHS một số nước trên thế giới so với BLTTHS nước ta là đối tượng áp dụng theo thủ tục giản lược phải là người đã thành niên, ví dụ: Bộ luật TTHS Pháp quy định chỉ áp dụng TTRG đối với người từ đủ 18 tuổi trở lên. Quy định này góp phần đảm bảo quyền lợi của các bị can, bị cáo vị thành niên. Vì khi người phạm tội là người chưa thành niên, pháp luật quy định họ được hưởng một số quyền ưu đãi đặc biệt trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử như: quyền có người giám hộ, người bào chữa, quyền được hưởng mức hình phạt thấp hơn người đã thành niên... Việc áp dụng thủ tục tục giản lược đối với họ trong quá trình giải quyết vụ án có thể làm ảnh hưởng đến các quyền trên. Chúng tôi cho rằng, việc quy định như vậy là hợp lý và Việt Nam nên tiếp thu sửa đổi BLTTHS theo hướng không áp dụng thủ tục này đối với người chưa thành niên phạm tội.


Tóm lại, TTRG là một thủ tục đặc biệt, được áp dụng đối với những vụ án đơn giản, chứng cứ rõ ràng; việc áp dụng thủ tục này giúp cho các cơ quan tiến hành tố tụng giải quyết nhanh chóng các vụ án hình sự, hạn chế tình trạng án tồn đọng, kéo dài; tiết kiệm được chi phí về thời gian, tiền bạc của Nhà nước. Tuy nhiên, việc áp dụng TTRG phải đáp ứng được yêu cầu về bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của người bị tình nghi. Do vậy, trong quá trình sửa đổi, bổ sung một số điều của BLTTHS, cần phải điều chỉnh theo hướng bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của người bị tình nghi theo hướng đã đề xuất.





(1) Nguyễn Văn Quảng, TTRG theo quy định của BLTTHS – Thực tiễn áp dụng và kiến nghị hoàn thiện, Đề tài cấp Bộ, Viện Kiểm sát nhân dân TP.Hải Phòng, năm 2009.


(2) Nguyễn Văn Quảng, tlđd


(3) Nguyễn Văn Quảng, Tlđd.


(4) Nguyễn Văn Quảng, Tlđd.


(5) VKSNDTC, Bộ luật TTHS của Cộng hòa Pháp (Bản dịch), Hà Nội, 2008.


(6) VKSNDTC, Bộ luật TTTHS Hàn Quốc (Bản dịch), Hà Nội, 1998.


(7) VKSNDTC, Bộ luật TTHS năm 2001 của Liên bang Nga (Bản dịch), Hà Nội, 2002.


(Cool VKSNDTC, Bộ luật TTTHS của Cộng hòa Pháp (Bản dịch), Hà Nội, năm 2008.


(9) VKSNDTC, Bộ luật TTTHS Nhật Bản (Bản dịch), Hà Nội, 1998.

(Bài đăng trên tạp chí Nghiên cứu lập pháp số 192-thang-4-2011 ngày 10/04/2011) ThS. Nguyễn Sơn Hà - Viện Kiểm sát nhân dân TP. Hải Phòng.

Về Đầu Trang  Thông điệp [Trang 1 trong tổng số 1 trang]

Permissions in this forum:
Bạn không có quyền trả lời bài viết