SVLAW.7FORUM.BIZ 2014
Bạn có muốn phản ứng với tin nhắn này? Vui lòng đăng ký diễn đàn trong một vài cú nhấp chuột hoặc đăng nhập để tiếp tục.
SVLAW.7FORUM.BIZ 2014

Thế giới ngày mai thuộc về những người có tầm nhìn hôm nay - ROBERT SCHULLER

Đăng Nhập

Quên mật khẩu



FAVORITES

Hoàn thiện pháp luật về tập đoàn kinh tế  Cash_register Đăng ký
Hoàn thiện pháp luật về tập đoàn kinh tế  Menu-home Home
Hoàn thiện pháp luật về tập đoàn kinh tế  Menu-community Forum

APPS

Hoàn thiện pháp luật về tập đoàn kinh tế  Menu-newcontent Xem nội dung mới
Hoàn thiện pháp luật về tập đoàn kinh tế  Menu-quicknavigation Hộp thư

MORE

Hoàn thiện pháp luật về tập đoàn kinh tế  Menu-more Lý lịch
Hoàn thiện pháp luật về tập đoàn kinh tế  Menu-reglas Trợ giúp
Hoàn thiện pháp luật về tập đoàn kinh tế  Likes_flag Ban quản trị

OTHERS

Hoàn thiện pháp luật về tập đoàn kinh tế  Date Lịch
Hoàn thiện pháp luật về tập đoàn kinh tế  Cake Thống kê

Latest topics

» TỔNG HỢP TIẾNG ANH CHUYÊN NGÀNH LUẬT
by tdung67 Wed Mar 22, 2017 2:57 pm

» ĐỀ THI TRÁCH NHIỆM DÂN SỰ NGOÀI HỢP ĐỒNG (ĐỀ 2)
by tdung67 Mon May 30, 2016 9:24 am

» [HOT] 400 CÂU TRẮC NGHIỆM KIẾN THỨC NGÂN HÀNG (CÓ ĐÁP ÁN THAM KHẢO)
by duyenvinh Wed Mar 09, 2016 10:03 am

» Phương pháp học tiếng anh mới nhất
by thanhnam9187 Thu Mar 03, 2016 8:52 am

» Quản lí nhà nước về hộ tịch
by minhthuc Mon Feb 29, 2016 3:13 pm

» Anh chị nào học luật ngân sách nhà nước rồi có thể hướng dẫn em làm bài tập bên dưới được không ạ? e cảm ơn nhiều ạ :x :x :x
by hihu2016 Sun Feb 28, 2016 8:34 pm

» Tổng hợp đề thi Luật TMQT
by HoaiNam90 Tue Feb 16, 2016 4:52 pm

» Đề thi Công pháp quốc tế
by HoaiNam90 Tue Feb 16, 2016 4:51 pm

» Đề thi Luật Thương Mại
by HoaiNam90 Tue Feb 16, 2016 4:50 pm

» Trang web tổng hợp đề thi trường Luật
by HoaiNam90 Tue Feb 16, 2016 4:48 pm


You are not connected. Please login or register

Hoàn thiện pháp luật về tập đoàn kinh tế

Go down  Thông điệp [Trang 1 trong tổng số 1 trang]

librarian

librarian
Thành viên cấp 4
Thành viên cấp 4

1. Nhu cầu hoàn thiện pháp luật nước ta về tập đoàn kinh tế

Hiện nay, nước ta đã hình thành một số tập đoàn kinh tế (TĐKT) nhà nước được đầu tư khá mạnh tay và trong một chừng mực nhất định, đã thể hiện được vai trò nòng cốt của mình trong nền kinh tế quốc dân. Bên cạnh đó, cũng đã hình thành những “TĐKT” ngoài Nhà nước, mặc dù có mức đầu tư chưa lớn nhưng đã có những đóng góp đáng kể vào việc tạo nên sự tăng trưởng kinh tế trong thời gian qua.

Tuy nhiên, hoạt động của các TĐKT nhà nước đã bộc lộ nhiều yếu kém, hiệu quả kinh doanh chưa tương xứng với sự đầu tư và những ưu đãi của Nhà nước, chưa đủ năng lực để hội nhập, cạnh tranh trong khu vực và trên thế giới. Các “TĐKT” ngoài Nhà nước có quy mô nhỏ lẻ, không xứng tầm “tập đoàn”, không đủ sức cạnh tranh với các TĐKT lớn trong điều kiện hội nhập hiện nay.

Bên cạnh những nguyên nhân phát sinh từ quá trình tổ chức thực hiện pháp luật về TĐKT (thể hiện trong nhiều hoạt động khác nhau, ở tất cả các khâu, các công đoạn của quản lý nhà nước, từ việc hình thành, quản lý, điều hành đến việc thanh tra, kiểm tra hoạt động đối với các TĐKT), thì sự khiếm khuyết trong pháp luật về TĐKT đã trở thành nguyên nhân căn bản dẫn đến những điểm yếu kém, bất cập trong tổ chức và hoạt động của các TĐKT ở nước ta.

Trước hết, là sự thiếu hụt các quy định về TĐKT ngoài Nhà nước. Điều này đã tạo khó khăn không nhỏ cho việc hình thành, tổ chức và đặc biệt là hoạt động kinh doanh của các TĐKT ngoài Nhà nước. Hiện nay, ngoài một số quy định khá chung chung về TĐKT, pháp luật mới chỉ có những quy định chi tiết về TĐKT nhà nước. Trong quá trình tổ chức thực hiện, nhiều quy định đã bộc lộ rõ những điểm bất hợp lý cần sớm được khắc phục, như: một số quy định pháp luật chưa phản ánh đúng bản chất về tổ chức và hoạt động của TĐKT (cơ chế thành lập tập đoàn, cơ chế bổ nhiệm nhân sự quản lý, điều hành tập đoàn...); một số quy định thiếu rõ ràng nên khó thực hiện. Bên cạnh đó, cũng còn nhiều vấn đề phát sinh trong tổ chức và hoạt động của TĐKT nhà nước chưa được pháp luật quy định.

2. Những quan điểm cơ bản trong việc hoàn thiện pháp luật về tập đoàn kinh tế

Để việc hoàn thiện pháp luật về TĐKT đúng với định hướng của Đảng, đáp ứng nhu cầu tự thân của nền kinh tế thị trường, cần xác định đúng đắn và thực hiện nghiêm chỉnh những quan điểm cơ bản sau đây:

Một là , pháp luật về TĐKT nhà nước phải hướng tới mục tiêu phục vụ nhiệm vụ công nghiệp hóa, hiện đại hóa, chuyển dịch cơ cấu kinh tế và đổi mới cơ chế quản lý nền kinh tế quốc dân. Điều này có xuất phát điểm từ vai trò của TĐKT nhà nước trong nền kinh tế quốc dân. Với tư cách là sản phẩm tất yếu của sự phát triển kinh tế thị trường, TĐKT nhà nước có vai trò động lực tạo ra và thúc đẩy sự tăng trưởng kinh tế, đồng thời cũng trở thành nhân tố quan trọng trong việc tăng cường khả năng cạnh tranh của các doanh nghiệp Việt Nam trên trường quốc tế. Chính vì vậy, nếu việc thành lập và phát triển TĐKT được tiến hành đúng đắn thì sẽ thực sự trở thành giải pháp chiến lược để đẩy nhanh tốc độ và bảo đảm sự thành công của sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Ngược lại, nếu việc thành lập và phát triển không đúng hướng thì không những không thể đạt được các mục tiêu này, mà còn gây ra những hậu quả khó lường về chính trị, kinh tế, xã hội. Trên thực tiễn, đã có một số TĐKT nhà nước, đặc biệt là các tổng công ty, được thành lập như một “trào lưu”, một giải pháp né tránh việc cổ phần hoá doanh nghiệp - điều mà một số cán bộ có thẩm quyền của Nhà nước và của các doanh nghiệp là đối tượng cổ phần hoá không mong muốn. Cũng đã có biểu hiện về sự lệch lạc trong tổ chức và hoạt động của một số TĐKT nhà nước, như: sử dụng việc bổ nhiệm các chức vụ quản lý, điều hành trong tập đoàn để kéo bè, kéo cánh hoặc đạt được những mục đích vụ lợi khác mà không quan tâm đến năng lực của người được bổ nhiệm; việc đầu tư tràn lan, theo sở thích ngẫu hứng của người có thẩm quyền trong tập đoàn, bất chấp hiệu quả và không tuân thủ các quy luật kinh tế... Vì vậy, cần xuất phát và gắn với yêu cầu, nhiệm vụ chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa, đổi mới quản lý theo cơ chế thị trường, định hướng xã hội chủ nghĩa để thành lập và phát triển TĐKT nhà nước đã thực sự trở thành một quan điểm tối thượng, cần được đặc biệt lưu ý trong thời gian tới. Điều này không chỉ là vấn đề hoạt động thực tiễn, mà ngay trong pháp luật cũng đã phải có đầy đủ các quy định về điều kiện thành lập, việc xử lý những tập đoàn đã được thành lập mà không đáp ứng điều kiện quy định, cơ chế quản lý hoạt động của tập đoàn nhằm thực hiện mục tiêu đặt ra, biện pháp xử lý đối với những TĐKT có hoạt động sai lệch mục tiêu hoạt động.

Mặt khác, do cơ cấu kinh tế của ta còn nhiều bất hợp lý cần được tổ chức, sắp xếp lại và trong quá trình cơ cấu lại nền kinh tế sẽ hình thành những ngành nghề mới, những lĩnh vực hoạt động mới hay các sản phẩm mới mang tính chiến lược, những vùng kinh tế hoặc trung tâm kinh tế mới, nên pháp luật cũng cần tạo ra cơ chế mở để vừa có thể phát huy vai trò trụ cột, khai thác tiềm lực to lớn của các TĐKT nhà nước, vừa khuyến khích, tạo điều kiện hình thành và phát triển các TĐKT tư nhân để cùng gánh vác những trọng trách này. Có như vậy, các TĐKT nhà nước mới không rơi vào tình trạng “quá tải” như hiện nay.

Hai là , pháp luật về TĐKT nhà nước phải phù hợp với xu thế chung của các nước trong khu vực và trên thế giới. Trước hết, cần có tư duy đúng đắn và xây dựng cơ chế pháp luật để khuyến khích, thu hút sự tham gia tự nguyện của các doanh nghiệp vào các TĐKT nhà nước; hạn chế đến mức tối đa việc thành lập TĐKT nhà nước một cách chủ quan, duy ý chí bằng các quyết định hành chính mang tính bắt buộc đối với các doanh nghiệp thành viên. Tuy nhiên, trong giai đoạn đầu, khi phần đa cán bộ chủ chốt trong các doanh nghiệp nhà nước (DNNN) chưa nhận thức đúng đắn và đầy đủ của sự cần thiết thành lập các TĐKT nhà nước thì biện pháp bắt buộc có thể trở nên cần thiết và phát huy hiệu quả, nhưng sự lạm dụng, kéo dài tình trạng này sẽ gây ra hiệu ứng bất lợi, sẽ tiếp tục cho ra đời các TĐKT nhà nước có mối liên kết lỏng lẻo, thiếu sự phối hợp giữa các doanh nghiệp thành viên, do đó vừa không tạo ra được sức mạnh tổng hợp của tập đoàn, vừa có thể tạo ra sự tập trung kinh tế, dẫn đến hành vi cạnh tranh không lành mạnh, điều mà pháp luật nước ta và nhiều nước khác đã cấm thực hiện trong hoạt động của doanh nghiệp.

Đồng thời, các TĐKT nhà nước cần được đa dạng hóa về sở hữu, về ngành nghề và lĩnh vực kinh doanh, thực hiện mối liên kết đa chiều (theo chiều dọc, theo chiều ngang và hỗn hợp) giữa các doanh nghiệp thành viên trong tập đoàn. Cần nhận thức đúng đắn về vai trò của việc đa dạng hóa sở hữu trong các TĐKT nhà nước, coi đó là biện pháp mang tính tất yếu để đẩy nhanh việc tích tụ và tập trung vốn, nâng cao hiệu quả hoạt động kinh doanh của TĐKT. Trong khi đó, vốn của tập đoàn là điều kiện đặc biệt quan trọng để mở rộng quy mô sản xuất, đầu tư chiều sâu, đổi mới trang thiết bị, nâng cao chất lượng sản phẩm, tăng khả năng cạnh tranh của tập đoàn trên trường quốc tế. Cần đa dạng hóa sở hữu trong TĐKT nhà nước thông qua việc đẩy mạnh cổ phần hóa DNNN là thành viên tập đoàn hoặc thành lập thêm các công ty cổ phần là thành viên trong các tập đoàn. Bằng những cách đó, có thể huy động có hiệu quả mọi nguồn vốn trong xã hội (kể cả vốn của doanh nghiệp nước ngoài) để phục vụ cho mục tiêu phát triển của các TĐKT nhà nước. Để việc cổ phần hoá các DNNN được thực chất, có hiệu quả, trước hết pháp luật cần quy định đầy đủ, rõ ràng và chặt chẽ về mọi vấn đề liên quan đến hoạt động này, đặc biệt là mở rộng phạm vi các đối tượng là doanh nghiệp cần được cổ phần hoá (tức là thu hẹp phạm vi độc quyền của Nhà nước), các biện pháp về tổ chức chỉ đạo hoạt động cổ phần, các biện pháp xử lý cương quyết đối với những cá nhân, tổ chức có hành vi cản trở hoặc dây dưa trong việc cổ phần hoá DNNN.

Hiện nay, vấn đề trọng tâm trong cổ phần hoá DNNN là việc cổ phần hóa các doanh nghiệp thành viên của các tổng công ty nhà nước, không phân biệt tổng công ty độc lập hay tổng công ty đã là thành viên của TĐKT nhà nước. Điều đó sẽ tạo tiền đề để tạo nên những TĐKT đa sở hữu, mạnh về tiềm lực kinh tế. Bên cạnh đó, cũng cần hoàn thiện cơ chế và thực hiện nghiêm chỉnh cơ chế đầu tư vốn của DNNN là thành viên của TĐKT vào các doanh nghiệp thành viên hoặc doanh nghiệp liên kết trong tập đoàn. Đó chính là cơ chế hữu hiệu, tạo nên sự đan xen sở hữu, vừa tạo ra sự gắn kết hữu cơ, bền chặt về kinh tế giữa các doanh nghiệp trong tập đoàn, vừa có tác dụng phân tán rủi ro trong đầu tư và tăng cường trách nhiệm của các thành viên trong việc quản lý, sử dụng và kiểm tra giám sát việc sử dụng vốn trong các doanh nghiệp, nâng cao hiệu quả hoạt động kinh doanh của từng doanh nghiệp và của cả tập đoàn. Mặc dù vậy, cần quán triệt nguyên tắc phát huy vai trò chủ đạo của kinh tế nhà nước, thông qua quy định công ty mẹ trong TĐKT nhà nước là doanh nghiệp 100% vốn Nhà nước.

Việc đa dạng hóa ngành nghề, lĩnh vực hoạt động và sản phẩm của doanh nghiệp có mục đích phân tán rủi ro trong kinh doanh, khai thác, sử dụng có hiệu quả và hợp lý các nguồn lực trong tập đoàn, từ đó nâng cao hiệu quả hoạt động của TĐKT nhà nước. Tuy nhiên, pháp luật cũng cần có quy định cụ thể về tỷ lệ vốn tối thiểu mà mỗi TĐKT phải sử dụng để đầu tư vào những ngành nghề, lĩnh vực hay sản phẩm chuyên môn chủ lực của mình để tránh sự đầu tư tràn lan, lệch hướng ảnh hưởng đến vai trò chủ lực của tập đoàn trong ngành nghề, lĩnh vực hoạt động chính.

Ba là , pháp luật về TĐKT nhà nước vừa phải tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp phát triển, vừa phải tạo cơ chế hữu hiệu để Nhà nước quản lý đối với hoạt động của tập đoàn.

Một mặt, cần có những quy định cụ thể, đúng đắn để Nhà nước thực hiện vai trò của mình trong việc tạo dựng, duy trì và thúc đẩy môi trường pháp lý, kinh tế, xã hội cần thiết cho sự ra đời và hoạt động của các TĐKT, thông qua cơ chế chính sách, công cụ quản lý nhà nước để tác động đến hoạt động của các TĐKT nhà nước, nhằm phát huy những mặt tích cực và hạn chế các mặt tiêu cực trong hoạt động của các TĐKT. Cần để cho TĐKT nhà nước quyền tự chủ hoàn toàn trong việc xác định chiến lược và kế hoạch phát triển dài hạn, nghiên cứu áp dụng tiến độ khoa học công nghệ, cũng như các biện pháp cụ thể trong kinh doanh. Cũng cần hoàn thiện pháp luật về chống cạnh tranh không lành mạnh và độc quyền kinh tế vì hoạt động của TĐKT nhà nước thường đi liền với những hiện tượng này.

Mặt khác, cần phân định rõ vai trò của các cơ quan nhà nước trong việc quản lý đối với các tập đoàn và vai trò của sở hữu chủ nhà nước, để vừa có thể quản lý chặt chẽ đối với hoạt động của TĐKT nhà nước, vừa tạo điều kiện thuận lợi để các tập đoàn tự chủ trong hoạt động kinh doanh mà không bị gò bó bởi các quyết định hành chính, không chịu can thiệp quá sâu và phi kinh tế vào hoạt động sản xuất kinh doanh của TĐKT.

Ngoài ra, cũng cần thay đổi cơ chế về việc hình thành và quản lý vốn của các TĐKT nhà nước. Cần nhanh chóng chấm dứt cơ chế cấp vốn theo kiểu bao cấp như hiện nay để chuyển sang cơ chế Nhà nước đầu tư vốn thông qua hoạt động của Tổng công ty Đầu tư và kinh doanh vốn nhà nước. Với cơ chế đó, tập đoàn và mỗi doanh nghiệp thành viên trong tập đoàn sẽ có trách nhiệm cao hơn trong việc huy động và sử dụng nguồn vốn của doanh nghiệp, tránh được sự ỷ lại trong việc huy động vốn hoặc tuỳ tiện trong đầu tư, sử dụng vốn của DNNN.

3. Kiến nghị hoàn thiện pháp luật về tập đoàn kinh tế

a/ Hoàn thiện quy định về điều kiện thành lập TĐKT nhà nước.

Trong các điều kiện phải có khi thành lập TĐKT nhà nước thì điều kiện về vốn của tập đoàn có vai trò đặc biệt quan trọng, vì nếu có đầy đủ những điều kiện khác mà thiếu vốn thì trong đa số các trường hợp, doanh nghiệp vẫn không thể thực hiện được các mục tiêu được đặt ra trong kinh doanh. Hiện nay, mức vốn tối thiểu mà pháp luật quy định doanh nghiệp phải có khi thành lập Tổng công ty nhà nước đã trở nên lạc hậu, không tương xứng với mức vốn của đa số TĐKT đang hoạt động trong khu vực và trên thế giới. Nếu chỉ đáp ứng được yêu cầu đó mà đã thành lập TĐKT nhà nước thì trong hoạt động, TĐKT nhà nước sẽ không thể có đủ năng lực cạnh tranh với các tập đoàn của các nước khác trên thế giới. Cần so sánh với vốn của một số TĐKT trên thế giới, để cân nhắc, chỉnh sửa quy định pháp luật về mức vốn tối thiểu phải có khi thành lập TĐKT nhà nước, bảo đảm sự phù hợp với thực tiễn hiện nay. Điều đó vừa góp phần tạo ra và bảo đảm năng lực cạnh tranh của các TĐKT nhà nước, vừa hạn chế được tình trạng thành lập tràn lan các TĐKT nhà nước làm ảnh hưởng đến việc thực hiện chủ trương của Đảng và Nhà nước ta trong việc hình thành và phát triển các TĐKT nhà nước.

Bên cạnh đó, cũng cần hoàn thiện cơ chế quản lý nhà nước đối với các TĐKT nhà nước, trong đó đặc biệt quan trọng là cơ chế quản lý vốn nhà nước tại các tập đoàn. Rà soát pháp luật hiện hành để loại bỏ những quy định mang tính “bao cấp” trong quản lý vốn, như quy định về cấp vốn, ưu tiên tín dụng, cho sử dụng các trái phiếu nhà nước vay từ bên ngoài… đối với các TĐKT nhà nước. Việc tạo ra sự độc lập về tài chính của các TĐKT nhà nước vừa tạo động lực để các tập đoàn vận động, phát triển, vừa bảo đảm sự bình đẳng giữa các doanh nghiệp thuộc những thành phần kinh tế khác nhau, tạo hành lang pháp lý thuận lợi để các doanh nghiệp phát triển.

Đồng thời, cũng cần khắc phục sự mâu thuẫn giữa quy định trong pháp luật về tên gọi “tập đoàn” và tư cách pháp nhân của TĐKT nhà nước.

Theo quy định tại khoản 2, Điều 26 Nghị định 139/2007/NĐ-CP thì “TĐKT không có tư cách pháp nhân, không phải đăng ký kinh doanh theo qui định của Luật Doanh nghiệp. Việc tổ chức hoạt động của tập đoàn do các công ty lập thành tập đoàn tự thỏa thuận quyết định”. Như vậy, để tránh lạm dụng từ “tập đoàn” khi thành lập các doanh nghiệp, dẫn đến sự “nhập nhằng” không đáng có, nên bổ sung vào Luật Doanh nghiệp năm 2005, sau khoản 1 Điều 32 một nội dung mới (khoản 1a). Khi đó Điều này có nội dung như sau:

“Điều 32. Những điều cấm trong đặt tên doanh nghiệp

1. Đặt tên trùng hoặc tên gây nhầm lẫn với tên của doanh nghiệp đã đăng ký.

1.a. Sử dụng cụm từ “tập đoàn” để tạo thành một phần tên riêng của doanh nghiệp.

2. …”.

Mặt khác, cần nghiên cứu thấu đáo để khẩn trương giảm bớt những lĩnh vực thuộc phạm vi độc quyền của Nhà nước, để trên cơ sở đó tạo điều kiện thuận lợi cho các TĐKT thuộc các thành phần kinh tế ngoài nhà nước phát triển. Khi đã có nhiều TĐKT thuộc các thành phần kinh tế khác nhau cùng hoạt động trong một lĩnh vực thì vừa tạo ra động lực nội tại thúc đẩy các TĐKT nhà nước phát triển do có sự cạnh tranh, vừa làm giảm bớt nguy cơ khủng hoảng cho nền kinh tế khi có một TĐKT nhà nước không đáp ứng được vai trò trụ cột do kinh doanh kém hiệu quả, thậm chí bị phá sản.

Nhà nước chỉ nên tiếp tục nắm giữ độc quyền trong kinh doanh đối với những lĩnh vực hoạt động trực tiếp liên quan tới an ninh, quốc phòng. Nhờ đó, Nhà nước vừa chủ động trong việc điều hành hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp, đáp ứng yêu cầu trong lĩnh vực an ninh, quốc phòng, vừa có điều kiện để tăng cường các biện pháp bảo vệ bí mật nhà nước. Đối với những lĩnh vực hoạt động khác thì Nhà nước chỉ cần điều tiết hoạt động của các doanh nghiệp thông qua cơ chế điều chỉnh pháp luật, ngay cả đối với những lĩnh vực được coi là quan trọng, thiết yếu, có tính chủ đạo, then chốt trong nền kinh tế quốc dân thì Nhà nước có thể cũng chỉ cần chi phối hoạt động của doanh nghiệp thông qua hình thức nắm giữ mức vốn hoặc cổ phần chi phối (trên 50% vốn của doanh nghiệp). Có như vậy, mới có thể hình thành được những TĐKT thực sự mạnh, đủ sức giữ vai trò then chốt trong các lĩnh vực và tham gia có hiệu quả vào những quan hệ kinh tế quốc tế với sự tham gia cạnh tranh khốc liệt của các TĐKT hùng mạnh của nước ngoài.

b/ Hoàn thiện quy định về mô hình tổ chức của TĐKT

Hiện nay, Điều 146 Luật Doanh nghiệp đã quy định về mô hình tổ chức của TĐKT, coi tập đoàn là một hình thức cụ thể của nhóm công ty. Theo quy định tại khoản 2 Điều này thì “công ty mẹ - công ty con” và “TĐKT” là hai mô hình khác nhau. Quy định này là bất hợp lý bởi những lý do sau đây:

- Khi xác định “nhóm công ty là tập hợp các công ty có mối quan hệ gắn bó lâu dài với nhau về lợi ích kinh tế, công nghệ, thị trường và các dịch vụ kinh doanh khác” thì trong mỗi nhóm công ty có thể cùng lúc nhiều mối quan hệ khác nhau, vừa có nhóm công ty mẹ - công ty con, vừa có những công ty liên kết theo các mô hình khác (liên kết qua đầu tư chéo về vốn ở mức không chi phối nhau, liên kết về nhượng quyền thương hiệu, liên kết về chia sẻ thị trường…). Trong khi đó, TĐKT cũng là nhóm công ty nên cũng có thể có nhiều mô hình liên kết này. Nghĩa là, giữa TĐKT và những nhóm công ty khác có thể không có sự khác biệt về mô hình tổ chức, mà có chăng chỉ là sự khác biệt về quy mô về vốn, về số lượng doanh nghiệp thành viên tham gia hoặc về lĩnh vực hoạt động.

- Quy định này dẫn tới cách hiểu: Khi thành lập các “nhóm công ty” không phải là TĐKT, thì chỉ có thể lựa chọn một trong hai mô hình là liên kết “công ty mẹ - công ty con” và “liên kết theo các mô hình khác”. Đó là quy định cứng nhắc và mâu thuẫn với quy định tại khoản 1 Điều này.

Bên cạnh đó, sau khi được xác định là một mô hình tổ chức của nhóm công ty, TĐKT lại được quy định riêng ở Điều 149 của Luật Doanh nghiệp: “TĐKT là nhóm công ty có quy mô lớn”.

Những quy định đó vừa tạo ra cách hiểu không đúng như đã phân tích ở trên, vừa tạo ra sự tản mát trong pháp luật. Vì vậy, cần sửa đổi những bất hợp lý này bằng cách loại bỏ nội dung khoản 2 Điều 146 và Điều 149, đưa nội dung của Điều 149 vào khoản 2 Điều 146. Khi đó Điều 146 được trình bày như sau:

“Điều 146. Nhóm công ty

1. Nhóm công ty là tập hợp các công ty có mối quan hệ gắn bó lâu dài với nhau về lợi ích kinh tế, công nghệ, thị trường và các dịch vụ kinh doanh khác.

2. TĐKT là nhóm công ty có quy mô lớn.

Chính phủ quy định về tiêu chí, tổ chức quản lý và hoạt động của TĐKT”.

c/ Hoàn thiện quy định cơ chế quản lý của Nhà nước đối với TĐKT nhà nước

Theo các quy định hiện nay thì Nhà nước quản lý đối với TĐKT nhà nước bằng nhiều cơ chế khác nhau: Thứ nhất, là cơ chế cơ quan chủ quản; thứ hai, là cơ chế cử người đại diện Nhà nước nắm giữ các chức vụ chủ chốt trong tập đoàn; thứ ba, là cơ chế quản lý của các cơ quan nhà nước chức năng ở địa phương. Với các cơ chế thứ nhất và thứ hai, cơ quan chủ quản của TĐKT nhà nước vừa là người quản lý, vừa là người đại diện phần vốn nhà nước trong tập đoàn nên đã dẫn đến tình trạng yếu kém như đã phân tích. Do đó, cần quy định cụ thể về thẩm quyền của cơ quan chủ quản (Chính phủ) đối với TĐKT theo hướng chỉ giới hạn trong những việc thẩm quyền quản lý nhà nước của cơ quan hành chính đó (quy định tại Luật Tổ chức Chính phủ) mà không có quyền can thiệp vào những hoạt động nội bộ của tập đoàn, như: việc kết nạp thêm thành viên mới, quyết định về tổ chức nhân sự, tiến hành hoạt động kinh doanh…

Hiện nay, để cử người đại diện cho sở hữu chủ nhà nước, Thủ tướng Chính phủ bổ nhiệm chủ tịch hội đồng quản trị của tập đoàn. Chủ tịch hội đồng quản trị sẽ thực hiện quyền năng của người đại diện phần vốn nhà nước trong tập đoàn theo quy định của pháp luật về doanh nghiệp và điều lệ của tập đoàn, nhờ đó, Nhà nước quản lý được phần vốn của mình. Tuy nhiên, theo cơ chế bổ nhiệm này, người được Thủ tướng Chính phủ bổ nhiệm chỉ chịu trách nhiệm trước Thủ tướng về vấn đề quản lý nguồn vốn nhà nước trong tập đoàn mà không bị chi phối bởi các bộ chức năng. Trong khi đó, các TĐKT nhà nước hoạt động trong các lĩnh vực thuộc thẩm quyền quản lý nhà nước của các bộ khác nhau, vì vậy các bộ cũng khó có thể tiến kiểm tra hoạt động đại diện của chủ tịch hội đồng quản trị các TĐKT nhà nước. Đó chính là một trong những lý do dẫn đến sự buông lỏng quản lý đối với các TĐKT nhà nước trong thời gian qua ở nước ta. Mặt khác, cơ chế này cũng tạo ra rào cản đối với việc tập trung quản lý vốn nhà nước vào Tập đoàn Đầu tư và kinh doanh vốn nhà nước. Do đó, đã có ý kiến phát biểu tại Quốc hội là Chính phủ nên rút khỏi việc trực tiếp quản lý TĐKT nhà nước và thành lập một cơ quan để quản lý phần vốn và tài sản nhà nước tại doanh nghiệp. Tuy nhiên, hiện nay đã có Tập đoàn Đầu tư và kinh doanh vốn nhà nước, nên có thể giao quyền quản lý phần vốn và tài sản nhà nước tại các doanh nghiệp cho Tập đoàn này. Như vậy, việc quản lý vốn nhà nước sẽ được tập trung, việc điều phối vốn được thuận tiện và quan trọng hơn cả là đã hình thành cơ chế kinh doanh vốn nhà nước, vừa buộc doanh nghiệp phải có trách nhiệm cao hơn đối với việc quản lý, sử dụng vốn vay (mà không phải vốn cấp như trước đây), chấm dứt được vai trò “bà đỡ” của Nhà nước đối với các TĐKT nhà nước.

Khi Nhà nước còn là “bà đỡ” thì còn xuất hiện nhiều hiện tượng không phù hợp với cơ chế thị trường, như việc xóa nợ, khoanh nợ, không cho áp dụng Luật Phá sản đối với các TĐKT nhà nước…, vừa tạo ra sự bất bình đẳng trong kinh doanh (điều mà Nhà nước ta hướng tới xoá bỏ), vừa gây tổn thất về kinh tế cho Nhà nước. Việc nhiều TĐKT nhà nước không còn khả năng thanh toán các khoản nợ đến hạn, thậm chí có số nợ gấp hơn chục lần số vốn điều lệ mà vẫn được tiếp tục tồn tại đã mang lại những hệ lụy khó lường và khó có thể khắc phục. Hiện nay, đang tồn tại quan điểm cho rằng, nếu để một TĐKT nhà nước phá sản thì sẽ có ảnh hưởng xấu đến nền kinh tế, như làm mất việc làm của quá nhiều người lao động, gây dư luận xấu về chính trị, tư tưởng… Tuy nhiên, cũng có nhiều quan điểm được hình thành khi xem xét vấn đề từ những khía cạnh khác, cho rằng cần thiết phải để các DNNN nói chung, các TĐKT nhà nước nói riêng phá sản khi chúng đã lâm vào tình trạng phá sản. Việc phá sản một TĐKT nhà nước có hoạt động kinh doanh yếu kém, thua lỗ kéo dài sẽ là lời cảnh báo hữu hiệu nhất đối với các TĐKT nhà nước khác, nhằm tạo động lực nội tại để thúc đẩy chúng phát triển, còn vấn đề việc làm của người lao động của TĐKT nhà nước bị phá sản sẽ được xã hội tự điều chỉnh theo quy luật “cung - cầu”. Vả lại, khi một doanh nghiệp thường xuyên thua lỗ trong kinh doanh thì đời sống của người lao động cũng khó có thể được bảo đảm, thậm chí còn có thể kém hơn khi doanh nghiệp đó phá sản vì người lao động bị hạn chế cơ hội có việc làm ở những doanh nghiệp khác.

Mặt khác, cũng cần thay đổi quy định về cơ chế Thủ tướng Chính phủ bổ nhiệm tổng giám đốc bằng cơ chế cho các doanh nghiệp thành viên của TĐKT lựa chọn tổng giám đốc của TĐKT nhà nước. Như vậy, chỉ có chủ tịch hội đồng quản trị của tập đoàn là người do Thủ tướng Chính phủ bổ nhiệm để đại diện cho phần vốn nhà nước trong TĐKT. Còn tổng giám đốc tập đoàn do hội đồng quản trị bầu ra trong số các thành viên hội đồng quản trị hoặc thuê người khác để điều hành hoạt động của TĐKT nhà nước. Do thành viên của hội đồng quản trị (trừ chủ tịch) được các doanh nghiệp thành viên bầu ra, là người đại diện cho doanh nghiệp trong bộ máy quản lý của tập đoàn, nên có thể coi cơ chế này đã trao cho các doanh nghiệp thành viên quyền lựa chọn tổng giám đốc của mình, nhờ đó sẽ có điều kiện để lựa chọn người phù hợp, có đủ những điều kiện cần thiết để điều hành hoạt động của tập đoàn. Mặt khác, với tư cách không phải là người đại diện phần vốn nhà nước tại tập đoàn, tổng giám đốc không chịu sự ràng buộc về mặt hành chính với cơ quan chủ quản nên độc lập trong hoạt động điều hành hoạt động của tập đoàn. Nhà nước thực hiện quyền của sở hữu chủ thông qua hoạt động của chủ tịch hội đồng quản trị.

d/ Nghiên cứu đặt ra quy định về TĐKT ngoài Nhà nước

Mặc dù xác định TĐKT không có tư cách pháp nhân, không phải đăng ký kinh doanh; vấn đề tổ chức tập đoàn do các doanh nghiệp thành viên tự quyết định, nhưng với vai trò dẫn dắt, định hướng cho các doanh nghiệp trong việc thành lập và quản lý các TĐKT ngoài nhà nước, Nhà nước cũng cần ban hành các quy định mẫu nhằm giúp cho các doanh nghiệp tránh được những lúng túng, sai lầm trong quá trình hình thành và phát triển các TĐKT. Có như vậy, đường lối của Đảng và Nhà nước về việc phát triển các TĐKT mạnh mới sớm được hiện thực hoá.



(Bài đăng trên tạp chí Nghiên cứu lập pháp số 198-thang-7-2011 ngày 10/07/2011) PGS, TS. Nguyễn Thế Quyền - Đại học Thương mại.

Về Đầu Trang  Thông điệp [Trang 1 trong tổng số 1 trang]

Permissions in this forum:
Bạn không có quyền trả lời bài viết